Soạn Bài Xa Ngắm Thác Núi Lư (Vọng Lư Sơn Bộc Bố)

Câu thứ nhất: : Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía tả hình dáng ngọn núi Hương Lô, cái phông nền của dòng thác. Nhà thơ phác ra được cái hình lẫn cái thần của ngọn núi, những cái đã khiến dân gian đặt tên cho nó là Hương Lô (lò hương). Trước Lí Bạch trên ba trăm năm, nhà sư Tuệ Viễn (334 - 417) đã từng tả: Khí bao trùm trên đỉnh Hương Lô mịt mù như hương khói. Cái mới mẻ đặc sắc mà Lí Bạch đem đến cho vẻ đẹp Hương Lô l à chọn thời điểm để miêu tả: núi Hương Lô lộ ra dưới ánh sáng mặt trời khi mà cảnh vật tràn đầy sinh khí và biến ảo. Tuy hơi khói đã có từ trước, nói đúng hơn là luôn luôn có, là tồn tại thường xuyên, nhưng động từ "sinh" mà Lí Bạch dùng ở đây đã khiến ánh sáng mặt trời xuất hiện như một chủ thể khiến cho muôn loài mọi vật sinh sôi nảy nở và sông động hơn lên.

Soạn bài - Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác
Chính vì vậy, từ động từ sinh, người dịch đã chuyển đổi ra động từ bay làm cho mối quan hệ nhân quả giữa hai vế: Nhật chiếu Hương Lô/tử yên bị xóa đi, và sự biến hóa vì vậy đã bị xua tan.

- Phân tích sự thành công của tác giả trong việc dùng từ quải (câu thứ hai), từ đó chỉ ra chỗ hạn chế của bản dịch thơ.

- Chứng minh rằng qua câu thơ thứ ba, ta không chỉ thấy hình ảnh của dòng thác mà còn hình dung được đặc điểm của dãy núi Lư và đỉnh núi Hương Lô.

- Giải thích vì sao lối nói phóng đại ở câu thứ tư vẫn tạo nên được một hình ảnh chân thực).

Câu thứ hai: (Xa trông dòng thác trước sông này). Từ (treo) là từ quan trọng nhất trong câu không được dịch thơ khiến câu thơ dịch đã kém sinh động. Câu này không chỉ làm rõ ý của đề mà còn cho thấy ấn tượng ban sơ của tac giả đối với thác nước. Từ biến động thành tĩnh. Vì ngắm từ xa, thác nước trên cao đổ ầm ầm xuống trông như một dải lụa trắng rủ xuống yên ắng và bất động treo lên giữa khoảng vách núi và dòng sông. Hai câu thơ 1 và 2 đẹp nh&# 432; một bức tranh tráng lệ kì vĩ: đỉnh núi mịt mù một màu khói tía, dưới chân núi là đòng sông tuôn chảy và khoảng giữa là thác treo cao như một dải lụa trắng.

Đến câu thứ ba: (Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước). Câu thơ từ tĩnh chuyển sang động: (chảy như bay) gợi người đọc mường tượng một thế núi cao. (thẳng xuống) mường tượng ra một sườn núi dốc đứng. Tam thiên xích (ba nghìn thước) con số ước lệ, khoa trương nhưng đọc lên vẫn thấy chân thực lạ thường.

Cuối cùng là câu: (Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây) là sự kết hợp tài tình giữa thực và ảo làm nên cảm giác bay bổng diệu kì của nhà thơ. (Ngỡ là) ở đây biết rõ sự vật không phải là như vậy nhưng nhà thơ vẫn tin và thuyết phục người đọc tin là như vậy. Đó chính là sức mạnh kì lạ của thơ ca.

Qua việc sử dụng từ ngữ cũng như qua đặc điểm các hình ảnh trong bài thơ, chúng ta có thể thấy ở tâm hồn và tính cách của nhà thơ Lí Bạch: một tình cảm bao la, cảm xúc sâu lắng phát xuất từ tình yêu thiên nhiên say đắm mãnh liệt của nhà thơ. Dưới ngòi bút của thi tiên, hình ảnh thác núi Lư đẹp đẽ kì vĩ và tráng lệ sinh động lạ thường. Hình ảnh thác núi Lưu như " " làm cho người đọc liên tưởng đến các hình ảnh " " (bài Công Vô Độ hà), " " (bài Tây Nhạc Vân Đài ca tống Đan Khâu)... đủ thấy tâm hồn Lí Bạch lãng mạn và bay bổng đến dường nào, biểu lộ ước vọng khao khát mạnh mẽ về lẽ sống của ông.

Về hai cách hiểu câu thứ hai:

- Ở bản dịch nghĩa:

- Ở chú thích: " ".

Nghĩa là dòng sông phía trước phải chỉ vị trí nơi thác đổ xuống mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa.

Cách hiểu thứ hai bay bổng hơn, lãng mạn hơn nên được nhiều người thích hơn.

Next Post Previous Post